CÓ ĐƯỢC BÁN NHÀ MÀ KHÔNG CÓ CẦN SỰ ĐỒNG Ý CỦA CHỒNG?
Chị Hoàng Diễm Q. hỏi: Tôi kết hôn năm 2019 và đến năm 2020 có mua một căn hộ chung cư tại quận X, giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ đứng tên tôi. Hiện tôi muốn bán căn hộ này để lấy vốn kinh doanh và mua một căn nhỏ hơn ở vùng ven. Tuy nhiên, khi làm thủ tục tại văn phòng công chứng, tôi bị từ chối với lý do cần có sự đồng ý của chồng. Xin hỏi, trong trường hợp này, tôi có bắt buộc phải có sự đồng ý của chồng khi chuyển nhượng căn hộ không? Rất mong được giải đáp.
*Luật sư trả lời:
1. Khi căn chung cư là tài sản chung của vợ chồng, khi bán cần phải có sự đồng ý của chồng chị
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
Điều 33 Tài sản chung của vợ chồng
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”
Điều 29 Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.”
Theo như tường thuật của chị, căn chung cư mà chị mua được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung vợ chồng, mọi quyết định liên quan đến tài sản chung đều phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng cho dù Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất chỉ đứng tên một mình chị.
Do đó, khi chị đến văn phòng công chứng để thực hiện việc chuyển nhượng khi không có mặt của chồng chị và/hoặc không có thoả thuận về việc hai vợ chồng đồng ý bán căn chung cư thì văn phòng công chứng sẽ không công chứng việc một mình chị chuyển nhượng tài sản nêu trên.
2. Khi căn chung cư là tài sản riêng của chị, chị có quyền bán và không cần có sự đồng ý của chồng
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Điều 44. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
“1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.”
Theo quy định nêu trên, chị có quyền bán căn chung cư với điều kiện căn chung cư là tài sản riêng của chị. Tuy nhiên, căn chung cư được chị mua trong thời kỳ hôn nhân, do đó, chị cần chứng minh căn chung cư được mua hoặc được xây bằng tài sản riêng của chị và/hoặc chung cư được vợ chồng chị thỏa thuận chia trong thời kỳ hôn nhân.
Lưu ý: Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chị có quyền bán nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.
Bài Viết Nhiều Người Xem

Tin tức liên quan
CHỒNG CÓ DẤU HIỆU BỊ BỆNH TÂM THẦN, LY HÔN ĐƯỢC KHÔNG?
*Bạn đọc hỏi: chị Đinh Thị Tú T., trú tại phường Hà Đông (TP Hà Nội), hỏi: Tôi và chồng kết hôn từ năm 2012 và có 2 con chung. Thời gian đầu vợ chồng sống với nhau bình thường. Tuy nhiên, đến năm 2015, vợ chồng tôi phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vả, cuộc sống không còn hạnh phúc. Từ đó đến nay, chồng tôi bỏ đi khỏi nhà, cắt đứt liên lạc, không hỏi thăm hay chu cấp bất kỳ khoản tiền nào để nuôi con. Gần đây, qua thông tin từ người quen, tôi được biết chồng tôi đang sinh sống tại phường Sơn Trà (TP Đà Nẵng) và anh ấy có biểu hiện mất trí nhớ, nhận thức không còn bình thường. Vì không thể tiếp tục cuộc hôn nhân này nên tôi muốn ly hôn. Cho hỏi trong trường hợp chồng tôi có dấu hiệu bị bệnh tâm thần, tôi có thể ly hôn được không?
LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÁC ĐỊNH CHA RUỘT CHO CON?
* Bạn đọc hỏi: anh Hải, hiện đang sinh sống tại TP Đà Nẵng, hỏi: Tôi và chị T. quen nhau từ năm 2019, khi đó T. và chồng cũ đã sống ly thân nhưng chưa ly hôn. Ngày 27/3/2023, T. và chồng cũ chính thức ly hôn theo quyết định của Tòa án. Đến tháng 10/2023, T. sinh một bé gái là con ruột của tôi. Tuy nhiên, khi làm giấy khai sinh thì cán bộ phường lại ghi nhận phần thông tin người cha là chồng cũ của T. Tôi muốn hỏi liệu cán bộ phường ghi nhận như vậy có đúng không, vì tại thời điểm sinh con, T. đã ly hôn? Tôi có quyền yêu cầu xác định tôi là cha ruột của cháu và điều chỉnh lại thông tin khai sinh cho đúng với thực tế được không?
GÓC NHÌN PHÁP LÝ TỪ VỤ ÁN GIA ĐÌNH THUÊ NGƯỜI HÀNH HUNG NHÂN TÌNH CỦA CON TRAI
Vụ án ông T. cùng con gái và một số đối tượng thuê người “dằn mặt” chị H. - nhân tình của con trai không chỉ để lại hậu quả thương tích nghiêm trọng mà còn gióng lên hồi chuông cảnh báo về những hệ lụy pháp lý, đạo đức và xã hội từ hành vi ngoại tình. Đây là một minh chứng điển hình cho thấy: Khi pháp luật chưa đủ mạnh để ngăn chặn, xã hội rất dễ chứng kiến những bi kịch đau lòng.
.png)





